Bạch cầu cấp dòng lympho (Acute Lymphoblastic leukemia: ALL) là một loại ung thư máu. Bạch cầu cấp dòng lympho người lớn chiếm khoảng 20% các trường hợp bạch cầu cấp ở người lớn. Chức năng của máu là vận chuyển oxygen và dưỡng chất đi khắp cơ thể và mang chất thải đi. Máu cũng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch và ngừa xuất huyết. Tế bào máu bao gồm 3 loại tế bào: hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Hồng cầu mang oxy đi khắp cơ thể, bạch cầu chống lại nhiễm trùng và tiểu cầu hỗ trợ cầm máu. Tủy xương là mô nằm ở trung tâm của xương. Tủy xương chứa các tế bào gốc tạo máu (blood stem cell). Các tế bào máu đều tạo ra từ tế bào gốc tạo máu. Tế bào gốc tạo máu trải qua nhiều giai đoạn trưởng thành để trở thành tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, đó là tế bào tiền thân dòng lympho (lymphoid progenitor cell) và tế bào tiền thân dòng tủy (myeloid progenitor cell). Bạch cầu cấp dòng lympho ảnh hưởng lên tế bào tiền thân dòng lympho, tế bào tạo lymphocyte.
Lymphocyte (tế bào lympho) là một loại tế bào bạch cầu. Có 3 loại lymphocyte chính: tế bào B (B lymphocyte), tế bào T (T lymphocyte) và tế bào giết tự nhiên (Natural killer (NK) cell). Bạch cầu cấp dòng lympho chủ yếu ảnh hưởng Tế bào B và tế bào T. Trong bạch cầu cấp dòng lympho, tủy xương tạo quá nhiều tế bào lympho chưa trưởng thành gọi là lymphoblast. Các tế bào lymphoblast có thể chen chúc các tế bào máu khác làm máu không thể thực hiện các chức năng bình thường của chúng. Bạch cầu cấp tiến triển nhanh hơn bạch cầu mạn. Có 2 loại bạch cầu cấp dòng lympho (ALL): B-ALL và T-ALL. Trong mỗi loại sẽ có nhiều phân nhóm nhỏ. Để chẩn đoán ALL, ít nhất 20% tế bào lymphoblast phải hiện diện trong tủy xương. Chọc tủy hoặc sinh thiết tủy là thủ thuật lấy ra nhóm các tế bào hay một mẫu mô từ tủy xương để xét nghiệm. Chẩn đoán ALL cần dựa trên tủy đồ hay sinh thiết tủy. Các xét nghiệm về gene, dấu ấn miễn dịch giúp phân nhóm loại ALL, hỗ trợ cho điều trị và tiên lượng. Bạch cầu có thể di chuyển đến dịch quanh tủy sống hay não và gây triệu chứng xâm lấn thần kinh trung ương. Để biết bạch cầu có trong dịch não tủy hay không, cần phải lấy mẫu dịch não tủy để xét nghiệm, nhằm loại trừ xâm lấn thần kinh trung ương, thủ thuật đó gọi là chọc dịch não tủy. Thủ thuật này còn có thể được dùng để tiêm hóa chất điều trị ung thư vào dịch não tủy.
Điều trị bạch cầu cấp dòng lympho không giống nhau ở mọi người. Bên cạnh tuổi tác, các yếu tố khác như tổng trạng, bệnh lý kèm theo, các yếu tố về gene đều đóng vai trò trong quyết định điều trị. Bệnh nhân có thể được đặt ống thông tĩnh mạch trung tâm hay buồng tiêm, nó giúp việc đưa thuốc hóa trị, chế phẩm máu, dịch và các điều trị khác vào dòng máu thuận tiện hơn, những dụng cụ này sẽ được lưu lại đến khi trị liệu hoàn tất. Hóa trị liệu là nền tảng trong điều trị ALL và thường được kết hợp với các thuốc trị liệu khác. Thuốc hóa trị tiêu diệt các tế bào phân chia nhanh, trong đó có tế bào ung thư. Bệnh nhân hóa trị liệu cần được theo dõi các tác dụng phụ cũng như các phản ứng không mong muốn của thuốc. Có rất nhiều thuốc hóa trị được dùng trong ALL và chúng thường được kết hợp với nhau. Mỗi loại tiêu diệt tế bào ung thư bằng các cơ chế khác nhau, nhằm ngăn tế bào ung thư quay trở lại. Liệu pháp nhắm trúng đích là một phương pháp nhắm vào những đặc điểm đặc biệt hoặc duy nhất của tế bào ung thư. Liệu pháp nhắm trúng đích tìm ra cách các tế bào ung thư phát triển, phân chia và di chuyển, các thuốc này sẽ ngăn chặn các phân tử làm nhiệm vụ giúp tế bào ung thư phát triển, tồn tại. Ghép tế bào gốc tạo máu thay thế các tế bào gốc bị thương tổn bằng các tế bào gốc khỏe mạnh. Các phương pháp điều trị đều có những tác dụng phụ.Bệnh nhân sẽ được theo dõi các tác dụng phụ, tình trạng nhiễm trùng cũng như các vấn đề liên quan đến điều trị trong suốt tiến trình điều trị.
Nguồn: NCCN guideline for Patients:Acute Lymphoblastic leukemia