BỆNH VIỆN
TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC

XÉT NGHIỆM SÀNG LỌC CÁC TÁC NHÂN LÂY NHIỄM QUA ĐƯỜNG TRUYỀN MÁU Ở NGƯỜI HIẾN MÁU TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC

      An toàn truyền máu là nội dung xuyên suốt trong chiến lược truyền máu của mỗi quốc gia, trong đó sàng lọc các tác nhân lây nhiễm (TNLN) qua đường truyền máu luôn được xem là mục tiêu quan trọng nhằm giảm thiểu ở mức thấp nhất nguy cơ nhiễm khi sử dụng các chế phẩm máu với mục đích điều trị. Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã khuyến cáo việc sàng lọc HBV, HCV, HIV và giang mai là bắt buộc cho tất cả các đơn vị máu. Và theo ước tính của WHO, nhu cầu sử dụng máu trong điều trị hàng năm của mỗi quốc gia tính theo đơn vị bằng 2% dân số.

      Ở Việt Nam, theo quy định của thông tư 26/2013/TT-BYT ngày 16/9/2013 của Bộ Y tế về Hướng dẫn hoạt động truyền máu quy định việc đảm bảo an toàn truyền máu phải được thực hiện đồng bộ hiệu quả từ công tác tuyên truyền, vận động hiến máu, tuyển chọn người hiến máu, lấy mẫu, điều chế, bảo quản, vận chuyển, quản lý, sử dụng máu và chế phẩm máu. Trong đó, việc đảm bảo tất cả các đơn vị máu được sàng lọc an toàn các bệnh lây qua đường truyền máu như HBsAg, Anti-HCV, HIV và giang mai bằng kỹ thuật huyết thanh học và HBV-DNA, HCV-RNA, HIV-RNA bằng kỹ thuật sinh học phân tử NAT (Nucleic acid test) là quy định bắt buộc. Dưới đây là 2 phương pháp được Bệnh viện Truyền máu Huyết học sử dụng để sàng lọc các tác nhân lây nhiễm qua đường truyền máu cho người hiến máu

      Phương pháp miễn dịch huyết thanh học:

      Đây là phương pháp giúp phát hiện kháng nguyên hoặc kháng thể đặc hiệu, cho đến nay phương pháp này là công cụ chẩn đoán chủ yếu để xác định các virus gây bệnh ở người. Các phương pháp xét nghiệm được triển khai tại Bệnh viện:

- Phương pháp ELISA (Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay) hay còn gọi là phương pháp EIA

- Phương pháp điện hóa phát quang (ECLIA)

- Phương pháp hóa phát quang (CMIA)

      Các phương pháp này được sử dụng phổ biến trong sàng lọc máu ở tất cả các nước trên thế giới. Kỹ thuật có độ chính xác cao, thuận tiện và tự động hoàn toàn. Tuy nhiên, do nguyên tắc phát hiện dựa trên kháng nguyên kháng thể nên đối với những bệnh nhân chưa xuất hiện kháng nguyên, kháng thể, hoặc kháng nguyên, kháng thể đã mất đi thì phương pháp này không phát hiện được. Do đó cần có một phương pháp có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn nữa để phát hiện sớm virus gây bệnh.

      Phương pháp sinh học phân tử (Kỹ thuật NAT)

      Kỹ thuật khuếch đại acid nucleic (NAT) là một trong những kỹ thuật tiên tiến nhất hiện nay mà Bộ Y tế đã ban hành Thông tư cho phép áp dụng trong sàng lọc máu. Kỹ thuật này giúp phát hiện trực tiếp các DNA hoặc RNA của virus, rút ngắn thời gian cửa sổ trong việc phát hiện các virus lây nhiễm có trong mẫu máu thu thập và cho kết quả phân tích chính xác, tin cậy.

      Các kỹ thuật NAT áp dụng trong sàng lọc HBV, HCV, HIV được phát triển trên thế giới phổ biến nhất là TMA (Transcription mediated amplification) và PCR (polymerase chain reaction). Hai kỹ thuật này đều được sử dụng tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học để sàng lọc túi máu

      Kỹ thuật TMA: là phương pháp khuếch đại acid nucleic dựa vào phiên mã sử dụng hai enzyme RNA polymerasereverse transcriptase. Enzyme reverse transcriptase tạo phiên bản chuỗi đôi DNA từ 1 RNA hay DNA đích. Tiếp đó, enzyme RNA polymerase tạo hàng ngàn phiên bản RNA bổ sung (RNA amplicon) từ chuỗi đôi DNA. Mỗi RNA amplicon sẽ trở thành đích mới cho chu kỳ hoạt động tiếp theo của reverse transcriptase và RNA polymerase. Kết quả của sự khuếch đại theo cấp số nhân của quy trình là từ một acid nucleic đích ban đầu sẽ cho hơn một triệu bản sao. Các amplicon từ tiến trình này sẽ được phát hiện nhờ quá trình lai với đoạn dò đặc hiệu có gắn chất nhuộm phát quang.